1. Nguyễn Đức Tùng được biết đến lâu nay trong vai một nhà thơ, nhà phê bình, đôi khi có đá qua tản văn, truyện ngắn, biên dịch. Nay ông thử sức qua địa hạt tiểu thuyết. Hay nói khác đi, tiểu thuyết, một thể loại dung lượng lớn, với sức chứa những biểu đạt và suy tư lớn về thực tại và chủ thể đã chờ đợi ông, trao cho ông một hình thức nghệ thuật thích đáng.
Đi qua 55 chương đặt tên dài ngắn khác nhau, tôi nhận thấy, tác giả chủ yếu tập trung bộc lộ trữ tình, bộc lộ những suy tưởng về đời sống và về chính chủ thể. Không thấy nhiều những sự kiện biến cố, hoặc nếu có cũng được làm mờ đi, nới lỏng ra, được biến thành cái cớ để bộc lộ thái độ, cảm xúc, suy tư, cắt nghĩa, truy vấn, hoang mang… của chủ thể; nghĩa là không có các “bức tranh” liên tục và rộng dài về đời sống.
Tiểu thuyết “Thuyền” – Nxb Phụ nữ Việt Nam, 2025 của Nguyễn Đức Tùng
Tiểu thuyết “Thuyền” đã dựng lên một cái khung rộng: một con thuyền chở các thuyền nhân từ Việt Nam đi qua vịnh Thái Lan, gặp cướp biển hoành hành, cuối cùng được một tên cướp người Thái gốc Việt động lòng lai dắt con tàu vào khu vực mỏ dầu của người Âu Mỹ, từ đó những thuyền nhân còn sống sót được đưa vào trại tị nạn, cuối cùng nhân vật “tôi” sang Canada và trở thành bác sĩ. Trên nền bối cảnh đó là câu chuyện tình giữa nhân vật “tôi” và Liên Hương, cái chết của Liên Hương như một sự tự giải thoát và những ám ảnh của nhân vật “tôi” về Hương và những gì xoay quanh câu chuyện tình của hai người. Tất cả các biến cố đó được tác giả lướt qua rất nhanh, không chủ trương dừng lại miêu tả hoặc kể về. Một lối viết lược giản, tiết chế kể, tả (trần thuật). Thay vào đó, tác giả tiểu thuyết dìm nhân vật vào những suy tư, những ám ảnh, những ảo ảnh, hoang tưởng, cơn mơ, cật vấn, hồ nghi… Đặc biệt, nhân vật “tôi”, chủ thể được kiến tạo không theo lối “tạo hình” mà theo lối trình hiện (show) nội tâm. Triền miên nội tâm với muôn vàn cung bậc, trạng thái, sắc thái. Tất cả được diễn tả với cường độ mạnh, sát ván, căng thẳng, có lúc ngạt thở.
Thế giới bên ngoài nhân vật “tôi” thấp thoáng hiện ra theo cách bị giảm thiểu, tạo cớ. Không biên niên. Không bức tranh. Thay vào đó là chủ thể “tôi” trước thế giới và trước bản thể, là thế giới nội tâm của chủ thể trữ tình và suy tưởng. Tôi gọi tiểu thuyết này thuộc loại tiểu thuyết trữ tình-suy tưởng.
2. Tiểu thuyết “Thuyền” lấy bối cảnh là sự kiện hàng loạt người Việt di tản vượt biên theo đường biển vào những năm hai thập niên cuối thế kỷ XX mà người viết tiểu thuyết cũng là người trong cuộc.
Có hai điểm đáng lưu ý về tâm thế sáng tạo.
Thứ nhất, đây là một tiểu thuyết mang tính tự truyện, tuy không phải là đặc điểm chính. Tại sao lại có thể nói được như thế? Không hẳn vì nhân vật chính của tiểu thuyết xưng “tôi” trong vai người kể chuyện từ đầu đến cuối. Đọc vào tiểu thuyết, có khá nhiều chi tiết thuộc nhân vật, bối cảnh khiến người đọc không thể không quy chiếu vào tác giả tiểu sử. Hoặc nhìn từ phía con người tiểu sử Nguyễn Đức Tùng, cũng có khá nhiều điểm hoặc tương đồng, hoặc gần kề với một số chi tiết có mặt trong tác phẩm. Có thể kể ra đây một số dấu hiệu: nhân vật “tôi” quê gốc Quảng Trị, là thuyền nhân trong cuộc di tản trên biển, thuộc nhân vật tị nạn, sau sang Canada theo học ngành y rồi trở thành bác sĩ (nhiều kiến thức y khoa được huy động vào việc miêu tả nhân vật), một người viết văn, coi văn chương như là cách lưu giữ ký ức cộng đồng và tham dự đời sống… Vẫn biết, không nên đồng nhất giữa nhân vật và tác giả tiểu sử, nhưng khi đọc tiểu thuyết này, khá nhiều chi tiết cho phép quy chiếu vào tiểu sử tác giả, tương đồng với tiểu sử tác giả. Vì thế, có thể khẳng định tính tự truyện là một trong những đặc điểm của tiểu thuyết này.
Tính tự truyện nếu được xử lý tốt, hợp lý, tiết chế, vừa đủ để gợi dẫn đưa lại cho người đọc một niềm tin, một sự “tin cậy” đối với nội dung tiểu thuyết, tạo nên những hiệu ứng cảm xúc nghệ thuật ở người đọc.
Thứ hai, câu chuyện được kể của tiểu thuyết là một minh chứng sống động cho dòng văn học chấn thương. Viết về chấn thương có khi là cách phục sinh nỗi đau trong quá khứ. Có khi là cách hòa giải với những nếm trải để chữa lành vết nội thương. Cũng có khi để phân tích và cắt nghĩa lại quá khứ như một nhu cầu lý giải bản chất người… Tôi nghĩ, tiểu thuyết “Thuyền” của Nguyễn Đức Tùng cơ bản triển khai theo cách thứ ba: đi tìm câu trả lời cho cái ác, khát vọng tự do, tình yêu, sự hèn nhát, sự sống, cái chết… trong kiếp nhân sinh. Viết về chấn thương, dù muốn hay không vẫn cứ phải sống lại một lần nữa nỗi đau, thậm chí là căn bệnh rối loạn lo âu sau sang chấn (PTSD). Những ám ảnh khủng khiếp vẫn trở lại, can thiệp vào trạng thái sinh tồn của nhân vật “tôi”. Một trong rất nhiều ví dụ: “Nhiều năm sau, mùa hè, khi tôi về nhà sau một đêm trực ở phòng cấp cứu bênh viện, tắt hết đèn trong garage, mở cửa, tôi nghe thấy một mùi kỳ lạ thoảng tới, tựa như mùi của lông thú, hôi, tanh tưởi, buồn nôn, nhưng nó chỉ thoáng cái qua thật nhạnh, rồi một mùi hương thoang thoảng bay tới, át nó đi. Tôi đứng lại trong đêm tối, đứng sững ở đó, cố tình đứng thật lâu, im lặng, và tôi nhận ra cái mùi ấy, từ một đám cỏ dại, những bông tử đinh hương cuối mùa, mùi từ một sàn thuyền trên mặt biển đen, và tôi nhớ lại từng chi tiết, khuôn mặt của những tên cướp, những người phụ nữ trần truồng, áo quần của họ vất vung vãi trên sàn thuyền, đống lửa củi chập chờn, cái nắm tay chặt của Liên Hương, lạnh, khô, đau xót bồn chồn, như một nhành thông tươi trên đầu tôi vừa mới bị gió đánh gãy ngang, kêu răng rắc” (chương “Lửa trên thuyền”). Trong tác phẩm, đầy rẫy những ám ảnh có tính chấn thương tương tự như thế, khủng khiếp hơn thế.
Nhà phê bình Văn Giá – tác giả bài viết
3. Như đã nói, chất liệu tiểu thuyết chủ yếu là trữ tình suy tưởng. Vì thế, nó kéo theo hai cách xử lý, một thuộc về tình tiết/tình huống, một thuộc về người kể chuyện xưng “tôi”.
Có thể nói rằng, nếu người viết duy trì trạng thái trữ tình và suy tưởng triền miên, vô hồi kỳ trận cũng sẽ rất dễ làm người đọc mệt trí. Trên thực tế ở tiểu thuyết “Thuyền” cũng có một số trường đoạn rơi vào tình trạng này. Tuy nhiên, tác giả dường như có ý thức về nó, nên thỉnh thoảng lại cài cắm một số tình tiết đặc biệt ấn tượng và đắt giá, gây hấp dẫn người đọc. Trường đoạn miêu tả nhân vật “tôi” và một người đàn ông thuyền nhân khác vùng lên chống lại bọn cướp, liền đó Liên Hương chọn cách lao xuống biển tự vẫn để bảo toàn phẩm giá… có tính căng thẳng tột độ (chương “Con mắt”). Tình tiết nhân vật người phụ nữ Sài Gòn tự nguyện cho đứa bé sắp chết đói chết khát vì khóc uống sữa gây xúc động, chan chứa cảm xúc mẫu tính (chương “Sữa”). Chương “Thủy táng” miêu tả một nghi lễ thiêng liêng và tràn đầy nhân tính khi những nữ thuyền nhân chuyền tay nhau cái thi thể bé bỏng của đứa bé chết vì kiệt sức, và đặc biệt hình ảnh con bé chừng 6-7 tuổi rút đôi dép ở chân để nhường cho đứa bé xấu số kia đi vào lòng biển… Tôi muốn kể thêm một tình tiết nữa, về nhân vật người đàn ông lái tàu kiêm nghề cướp biển, có gốc gác người Việt Nam đã động lòng trắc ẩn, bí mật quay trở lại mang theo dưa hấu, nước cho thuyền nhân và lai dắt con tàu cho giàn khoan, nơi những người Âu Mỹ đang khai thác nhờ tị nạn để thoát khỏi cửa tử do đói, khát, bệnh tật và kiệt quệ… Tác giả tiểu thuyết rất giỏi trong việc tìm kiếm chi tiết, bầy đặt tình huống, sử dụng chúng theo cách tiết kiệm, đích đáng, gây shock và tìm cách giải tỏa. Nhưng điều đáng nói ở đây là tác giả luôn biết cách tháo gỡ tình tiết/tình huống theo cách không ngờ nhất, chan chứa lòng thương người, mang tính nhân bản phổ quát.
Trong trường hợp thứ hai, do chủ trương nhân vật người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, cho nên nhân vật này vừa tự kể về mình lại vừa kể về những gì ngoài mình trong tầm quan sát được. Tác giả Nguyễn Đức Tùng đã lựa chọn kiểu nhân vật “bất tự tín” về chính mình, về chính những cái kể của mình. Đây là cách vừa phản ảnh đúng ưu thế và giới hạn trường nhìn của nhân vật kể chuyện ngôi “tôi”, nhưng cũng là cách tự thú về những giới hạn bất khả. Nếu nhân vật thuộc kiểu người “tự tín”, anh ta sẽ tin vào những điều mà anh ta sẽ kể như những xác quyết. Nhưng không, người kể chuyện này công khai bộc lộ tính “bất tự tín”, không đoan quyết, không hoàn toàn tin, không dám tin vào chính những cảm xúc và suy tư của mình về chính mình và nhân thế. Chẳng thế mà trong lời trần thuật, khi biểu đạt những cảm xúc và suy tư của nhân vật, hoặc khi cho các nhân vật thoại với nhau, hoặc nửa đối thoại nửa độc thoại, xuất hiện trùng trùng các câu hỏi, kết thúc câu bằng dấu hỏi (?), có câu được trả lời, có câu treo đấy, bỏ ngỏ để rồi tiếp tục lại dắt sang nhưng câu hỏi khác; ngay cả những câu trả lời cũng không hẳn mang tính xác quyết, mà vẫn đang trong mạch suy tư chảy trôi liên tục, hoang mang. Không mang tính xác quyết, bất tự tín cũng lại kéo theo khả năng mơ hồ hóa nghệ thuật –một thủ pháp hướng tới sự gợi dẫn cần thiết. Lời văn của tiểu thuyết Nguyễn Đức Tùng trong nhiều trường đoạn như thể rượt đuổi ý thức, thả trôi theo dòng ý thức. Câu chữ trong nhiều trang viết tràn bờ, tuôn chảy, trùng điệp, xóa trắng dấu chấm câu (.), chỉ duy trì dấu phẩy, liên tục, lúc rỉ rả, khi vần vụ, ràng rịt các chiều cạnh ý tưởng, tâm trạng, cảm xúc. Đỉnh điểm cho lối viết này thể hiện trong chương “Người kể chuyện”, như một sắp đặt “tiểu thuyết trong tiểu thuyết”, kết cấu trùng phức. Những suy tư mang tính tiểu luận, chen lẫn những trường đoạn trữ tình có tính thơ làm nên một lối văn rất riêng của Nguyễn Đức Tùng. Ở đây, con người lao động nghệ sĩ nhà thơ và nhà phê bình đồng hiện.
4. Tiểu thuyết “Thuyền” nằm trong khu vực văn học di dân cuối thế kỷ XX đến nay. Nó là sản phẩm mang tính thời đại. Những tác giả của nó hoặc là nạn nhân trực tiếp của các cuộc di dân, hoặc nạn nhân gián tiếp như những hệ lụy thuộc thế hệ thứ hai, thứ ba. Các tác giả như Linda Lê, Nguyễn Thanh Việt, Ocean Vương rời Tổ quốc từ khi còn nhỏ. Các dấu vết chấn thương trong đó có câu chuyện thuyền nhân được nhắc đến như những liên hệ nằm trong một tổng thể đời sống gắn liền với các số phận cụ thể được miêu tả đây đó trong The Refugees (Người tị nạn, 2017), The Sympathizer (2015) hoặc Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian (2019)… Đến tiểu thuyết “Thuyền”, vấn đề thuyền nhân và cuộc di tản theo đường biển với tất cả tính chất khốc liệt và bi thảm của nó sau 1975 trở thành một đối tượng quan tâm và miêu tả trực tiếp, nhất quán, bao trùm. Từ sự kiện này, tác giả tiến hành bộc lộ cảm xúc, suy tư về đời sống và nhân sinh với nhiều tầng bậc, khía cạnh vừa cụ thể vừa có tính siêu hình.
Xét về mặt lịch sử, tiểu thuyết này là một nỗ lực ghi dấu ký ức, chống lại sự lãng quên, sự mau quên của giống người. Với lĩnh vực văn học, tiểu thuyết “Thuyền” là một tác phẩm đầu tiên viết về lịch sử di dân đường biển của người Việt sau 1975. Nhà văn Nguyễn Đức Tùng đã chọn một lối viết tự sự trữ tình suy tưởng. Nhờ vậy, tiểu thuyết trở nên khác biệt(*).
Viết về một tao đoạn lịch sử, lại là một lịch sử ngoại biên, rất dễ rơi vào tình trạng quy kết, phán xét, thậm chí quy giản vào lập trường ý thức hệ, theo định kiến đúng- sai… Nguyễn Đức Tùng chọn một tư thế phát ngôn khác, đó là lập trường nhân bản, theo đuổi những giá trị nhân bản phổ quát. Nhờ thế, các suy tưởng được đặt ra ở tác phẩm, trong nhiều trường hợp chạm được vào các vấn đề siêu hình học nhân sinh. Lựa chọn một tư thế phát ngôn như vậy, các phân tích đời sống trong tiểu thuyết không có bóng dáng của thù hận, oán trách, quy kết. Tiểu thuyết “Thuyền” đã để lại dư âm sâu xa và khắc khoải về lòng thương xót con người, về khát vọng tự do, khát vọng sống của con người.
Tháng 6.2025
VĂN GIÁ
Ảnh:1- Nhà văn Vũ Thư Hiên và các bầu bạn đến dự ra mắt THUYỀN
2- GS Trần Đình Sử và Nguyễn Đức Tùng