
Trong dòng chảy văn chương Việt Nam hiện đại, có những nhà văn không chỉ sáng tác mà còn âm thầm gánh vác sứ mệnh của một người lưu giữ ký ức. Họ là những nhà nghiên cứu, phê bình, những "thợ săn" tư liệu không mệt mỏi, dành cả đời để vực dậy những số phận văn chương đã bị bụi thời gian phủ lấp. Nhà văn, nhà báo Ngô Vĩnh Bình - người được mệnh danh là "kho tư liệu sống" của Tạp chí Văn nghệ Quân đội - chính là một nhân cách như thế.
Khởi nguồn từ mảnh đất "địa linh nhân kiệt"
Ngô Vĩnh Bình sinh năm 1953 tại làng Thụy Lôi (tên Nôm là làng Nhội, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội – Nay là thôn Thụy Lôi, phường Đông Anh , Hà Nội)). Mảnh đất quê hương ông vốn nổi tiếng với truyền thống hiếu học, được lưu truyền qua câu ca: "Thụy Lôi một giỏ sinh đồ/ Một giò ông Cống/ Một đống ông Nghè/ Một bè ông Trạng". Cái nôi văn hóa ấy đã gieo vào tâm hồn cậu bé Bình những hạt mầm đầu tiên của tình yêu văn chương và lịch sử.
Ngay từ thời phổ thông, Ngô Vĩnh Bình đã bộc lộ năng khiếu văn học xuất chúng. Năm 1967, ông được chọn vào lớp chuyên văn của Hà Nội, học tại Trường cấp 2 Mai Lâm. Thế nhưng, đến ngưỡng cửa đại học, chàng trai trẻ lại có một lựa chọn bất ngờ: không theo học Văn mà thi vào Khoa Sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1975, ông tốt nghiệp và về công tác tại Viện Dân tộc học thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam.
Bước ngoặt: Từ nhà sử học đến nhà văn mặc áo lính
Năm 1979, khi cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc nổ ra, Ngô Vĩnh Bình viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Sự kiện này trở thành bước ngoặt lớn trong cuộc đời ông. Sau chiến tranh, với quân hàm Trung úy, ông được phân công về Tạp chí Văn nghệ Quân đội - ngôi nhà chung của những nhà văn mặc áo lính tại số 4 Lý Nam Đế, Hà Nội, nơi được mệnh danh là "Nhà số 4".
Từ đây, sự nghiệp của Ngô Vĩnh Bình gắn liền với việc biên tập, sáng tác, nghiên cứu và phê bình văn học. Ông trải qua nhiều vị trí công tác, từ biên tập viên rồi trở thành Tổng Biên tập đời thứ 7 của Tạp chí Văn nghệ Quân đội với quân hàm Đại tá trước khi nghỉ hưu.
Phong cách phê bình: Nhạy cảm, trung thực và nhân ái
Trong suốt hơn 4 thập kỷ cầm bút, Ngô Vĩnh Bình đã hình thành một phong cách phê bình riêng biệt. Ông tâm niệm: "Một nhà phê bình giỏi phải hội tụ được ba đức tính: Nhạy cảm, trung thực và nhân ái". Trên hành trình rèn giũa ba đức tính ấy, ông luôn nghiêng về phía khích lệ, động viên các cây bút trẻ. Ông đặc biệt quan tâm tới số phận của các nhà văn, nhất là những người đã cống hiến máu xương trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
Khác với nhiều nhà phê bình thiên về lý thuyết, các bài viết của Ngô Vĩnh Bình luôn chan chứa tình người. Ông có biệt tài chộp lấy những khoảnh khắc đời thường, những chi tiết nhỏ nhưng giàu sức gợi để dựng nên chân dung nhà văn một cách sinh động. Viết về Vũ Cao, ông tái hiện hình ảnh tác giả "Núi đôi" với thói quen rung đùi, đôi giày quá khổ và nụ cười sảng khoái. Miêu tả Duy Khán, ông chớp lấy khoảnh khắc nhà thơ ôm cây khóc than: "Thiên nhiên ơi ta yêu người hơn máy móc". Nhờ những chi tiết ấy, chân dung các nhà văn vừa thông minh, hóm hỉnh, vừa gần gũi, ấm áp hiện lên dưới ngòi bút của ông.
"Vua tư liệu" của "Nhà số 4"
Với lợi thế xuất thân từ ngành sử, Ngô Vĩnh Bình được đồng nghiệp và giới văn nghệ gọi trìu mến là "vua tư liệu". Ông sở hữu một kho tư liệu đồ sộ, quý giá về các nhà văn quân đội. Muốn tìm một tấm ảnh chân dung, một tác phẩm thất lạc, hay nghe một giai thoại về các nhà văn ở "Nhà số 4", người ta đều nghĩ ngay đến ông như một địa chỉ tin cậy.
Sự lao động nghiêm cẩn của ông đã góp phần "bạch hóa" nhiều nghi án văn chương. Tiêu biểu là việc ông bác bỏ quan niệm cho rằng Hoàng Lộc là hiện tượng "nhà thơ một bài" (chỉ với bài "Viếng bạn"). Bằng những chứng cứ xác thực như mục cáo phó trên Báo Vệ quốc quân (tiền thân của Báo Quân đội nhân dân) số 58, 59 xuất bản tháng 12-1949, ông chứng minh Hoàng Lộc còn là tác giả tập bút ký "Chặt gọng kìm đường số 4" và tập thơ "Lời thông điệp" được nhạc sĩ Văn Cao vẽ bìa, in năm 1946.
Hành trình truy tìm tư liệu về các nhà văn của Ngô Vĩnh Bình nhiều khi gian nan như những cuộc phiêu lưu. Để dựng lại chân dung nhà văn - liệt sĩ Trần Đăng, ông đã lặn lội khắp nơi, từ quê hương ông ở Tây Tựu (Từ Liêm, Hà Nội) đến Thư viện Quân đội, rồi tìm gặp những người thân, đồng đội cũ của Trần Đăng. Nhờ sự kiên trì ấy, ông không chỉ tìm được tấm ảnh duy nhất của Trần Đăng sau hơn 30 năm nhà văn hy sinh, mà còn góp phần giúp hài cốt của Trần Đăng được tìm thấy và đưa từ biên giới phía Bắc về an táng tại Hà Nội.
Ông cũng là người biên soạn hoặc tham gia biên soạn nhiều tổng tập, tuyển tập có giá trị cao về tư liệu như "Tổng tập nhà văn Quân đội" (5 tập), "Thanh Tịnh văn và đời", "Xuân Thiều toàn tập" (bộ 4 tập), "Duy Khán tuyển văn xuôi và thơ", "Trần Đăng con người và tác phẩm"...
Nhà văn của những trang đời đằm sâu
Tạo dựng tên tuổi ở lĩnh vực phê bình, nhưng Ngô Vĩnh Bình cũng có những lần "lấn sân" sang văn xuôi một cách "sòng phẳng". Ông là tác giả của nhiều tập ký, tản văn như "Từ bến sông Yên", "Hà Nội đến... và thấy", "Nơi con chim bay bạc đầu chưa tới"... Với giọng văn trong sáng, giản dị và hóm hỉnh, cùng nguồn tư liệu dồi dào độc đáo, các tác phẩm của ông đã góp phần làm phong phú thêm vẻ đẹp của người lính Cụ Hồ và Hà Nội - hai mảng đề tài ông yêu tha thiết.
Trong tập tản văn "Hà Nội đến... và thấy" (NXB Hà Nội, 2021), Ngô Vĩnh Bình đưa người đọc đến với một Hà Nội vừa lạ, vừa quen, qua những góc nhìn tinh tế và đầy chiêm nghiệm. Ông tâm sự: "Hà Nội mà tôi 'gặp' lần đầu là các cô gái. Ấy là một cô Liên dịu dàng đằm thắm trong 'Gánh hàng hoa', hay cô Loan một thiếu nữ tân thời trong 'Đoạn tuyệt'...". Nhưng Hà Nội trong trang văn ông không chỉ là những hình ảnh lãng mạn mà còn là một Hà Nội hiện đại, đầy biến động, với "nhiều nhà CT (chung cư cao tầng), nút giao nút thông lập thể; trà đá, trà chanh thay chè chén, xì-gà thay thuốc lá cuốn sợi vàng Lạng Sơn".
Ông nhận thấy: "Sài Gòn dễ hội nhập hơn Hà Nội nhiều. Cứ ở Sài Gòn là thành người Sài Gòn. Chưa thấy mình là người Sài Gòn, ở lâu thêm chút nữa cũng thành người Sài Gòn... Nhưng với Hà Nội thì khác, ai sinh ra và sống lâu ở đây cũng tự hào". Sự tự hào ấy được bồi đắp bởi truyền thống ngàn năm văn hiến, bởi những con người "chẳng giống ai" nhưng giàu lòng tự trọng và nhân ái.
Người bạn đường thủy chung của đồng nghiệp
Trong mắt đồng nghiệp, Ngô Vĩnh Bình là một người anh, người bạn đáng tin cậy. Nhà văn Phùng Văn Khai viết: "Nhắc đến nhà phê bình văn học Ngô Vĩnh Bình, không chỉ lứa nhà văn đàn em chúng tôi luôn cảm thấy hào hứng vui vẻ, mà ngay cả các bậc đa đề ngày trước như Hồ Phương, Nguyễn Chí Trung, Nguyễn Trọng Oánh, Thu Bồn, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Chu Lai, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Trí Huân, Khuất Quang Thụy... đều thấy vô cùng gần gũi".
Ông có trí nhớ "bền sâu khủng khiếp", thuộc làu tiểu sử, tác phẩm, thậm chí cả những thói quen sinh hoạt của các nhà văn. Thu Bồn cuồn cuộn như sông suối lại có tài làm thịt chó rất ngon. Dịch giả Nguyễn Trung thời bao cấp "mò" được những thực phẩm quý hiếm cho cơ quan. Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu "ngu ngơ" đến mức đem mỡ nóng đổ vào can nhựa khiến can thủng, mỡ chảy hết. Nhà văn Lê Lựu luộm thuộm đến mức cơ quan phải giao cho Ngô Vĩnh Bình trợ giúp áo quần giày dép... Những câu chuyện "vô thiên lủng" ấy, mỗi khi cần, cứ hỏi Ngô Vĩnh Bình là biết hết.
Ông còn là người sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp một cách vô tư. Có lần, nhà văn Mai Ngữ viết cuốn "Xốc tới" về anh hùng Phùng Quang Thanh từ đầu những năm 1970. Gần nửa thế kỷ sau, khi Đại tướng Phùng Quang Thanh trở thành Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, muốn tìm lại cuốn sách nhưng không ai còn lưu giữ. Ngô Vĩnh Bình đã tìm ra một bản giấy đen ngòm và cùng Phùng Văn Khai biên soạn, tái bản tác phẩm. Những bản sách đầu tiên, họ đem tới thắp hương tại gia đình nhà văn Mai Ngữ, khiến Đại tướng vô cùng xúc động.
Tình yêu Hà Nội: Đằm sâu và day dứt
Dù quê gốc ở ngoại thành, nhưng Ngô Vĩnh Bình có một tình yêu sâu nặng với Hà Nội. Ông đến Hà Nội "như một kẻ xa lạ, đến như đi nước ngoài không cần visa", nhưng rồi dần cảm nhận và thấu hiểu cái hồn cốt của mảnh đất ngàn năm văn hiến.
Ông sống ở Hà Nội qua nhiều giai đoạn, từ thời bao cấp khó khăn đến thời kỳ đổi mới. Ông từng chia sẻ: "Khu tập thể gồm rất nhiều dãy nhà cấp bốn, nhưng xây chắc chắn... Vợ chồng tôi được chia nửa gian, rộng chừng 12 mét vuông, đủ kê một chiếc giường đôi và một manh chiếu. Bếp núc thì lấn ra vỉa hè". Trong không gian chật chội ấy, ông "tận hưởng" cả một thời bao cấp vui buồn, với những kỷ niệm khó quên bên người thân, bạn bè - những nhà văn, nhà báo "dân công đoàn" như Tống Văn Công, Đỗ Đức Ngọ, Nguyễn An Định, Thái Bá Tân...
Tình yêu Hà Nội trong ông không chỉ là những hoài niệm, mà còn là trách nhiệm gìn giữ những giá trị văn hóa. Ông dành nhiều tâm huyết viết về những nhân vật góp phần kiến tạo nên diện mạo Thủ đô, như Nguyễn Tư Giản - người dâng "Điều trần trị hà sự nghị" lên vua Tự Đức, góp phần xây dựng hệ thống đê điều cho Hà Nội. Ông cũng khắc họa chân dung Nguyễn Tuân - nhà văn "bám trụ" Hà Nội những ngày Mỹ ném bom, "đầu đội mũ phòng không, chiều chiều ung dung ngồi ở quán bia Cổ Tân" để viết nên tập bút ký "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi".
Sứ mệnh của người lưu giữ ký ức
Cả cuộc đời gắn bó với các nhà văn mặc áo lính, với Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Ngô Vĩnh Bình đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của một người lưu giữ ký ức. Bằng những công trình nghiên cứu công phu, những bài phê bình sâu sắc, những trang tản văn đầy cảm xúc, ông đã góp phần quan trọng vào việc bảo tồn và phát huy di sản văn học cách mạng.
Ông không chỉ viết về các nhà văn nổi tiếng như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Thi, Chu Lai, Lê Lựu... mà còn dành sự quan tâm đặc biệt đến những người viết ít được biết đến, những nhà văn liệt sĩ đã hy sinh khi sự nghiệp còn dang dở như Trần Đăng, Hoàng Lộc... Ông lặng lẽ "góp nhặt cát đá" để dựng nên những tượng đài văn chương, để thế hệ sau không quên đi những hy sinh thầm lặng của lớp người đi trước.
Giờ đây, dù đã nghỉ hưu, Ngô Vĩnh Bình vẫn chưa ngừng nghỉ. Ông tiếp tục tham gia biên tập cho trang thông tin điện tử "Hà Nội trí thức" và chuẩn bị cho ra mắt cuốn sách "Chuyện người Hà Nội" tập 3. Tình yêu với văn chương, với Hà Nội, với đất nước vẫn cháy bỏng trong ông, như những câu thơ ông mới viết: "Sáng nay, thấy một đóa sen bên nụ hoa cúc dại/ Mới hay/ Thu đã sang rồi, nhưng hạ còn ở lại/ Trân anh, trong em, trong sóng nước Tây Hồ".
Cuộc chiến với bện tật: Không gục ngã
Hiện nay, nhà văn Ngô Vĩnh Bình đang điều trị tại bệnh viện Quân đội do những biến chứng nặng của bệnh tiểu đường. Dù cơ thể đau đớn và mệt mỏi, tinh thần ông vẫn minh mẫn và kiên cường. Theo chia sẻ từ gia đình, ông vẫn thường hỏi về những bản thảo dang dở và động viên các đồng nghiệp tiếp tục sáng tạo.
Những người thân và bạn bè gần gũi cho biết, ông luôn giữ thái độ lạc quan, coi bệnh tật chỉ là một thử thách phải vượt qua. Ông tâm sự: “Văn chương dạy tôi cách sống mạnh mẽ. Tôi sẽ không đầu hàng”.
Nhà văn Ngô Vĩnh Bình sắp bước sang tuổi 75 – một cột mốc có ý nghĩa với bất kì ai, đặc biệt là với một người đã cống hiến trọn đời cho văn chương. Mong rằng ông sẽ chiến thắng bệnh tật, đón sinh nhật trong niềm vui và hạnh phúc , để tiếp tục truyền cảm hứng cho thé hệ sau.
Thay cho lời kết
Ngô Vĩnh Bình không chỉ là một nhà văn, nhà báo, nhà phê bình văn học tài năng, mà còn là một nhân cách đáng kính. Ông là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa các thế hệ nhà văn, giữa Hà Nội xưa và nay. Với sự lao động nghệ thuật nghiêm cẩn, với tấm lòng nhân hậu và sự trung thực trí tuệ, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc và đồng nghiệp.
Có thể nói, ông chính là "người giữ hồn" cho "Nhà số 4" - nơi lưu giữ những ký ức vàng son của nền văn học cách mạng Việt Nam. Và như nhận xét của nhà văn Phùng Văn Khai, Ngô Vĩnh Bình mãi mãi là "kho tư liệu" văn nhân mà mỗi khi cần, người ta đều không ngần ngại bấm máy gọi cho anh.