Vanvn – …Tôi lạ vì Gia Dũng trở lại thể thơ lục bát và thể thơ thất ngôn rất nhuyễn, tay nghề vào bậc cao thủ, lời đẹp, ý sâu, khép mở rất tài tình, làm tôi rất bất ngờ, đọc xong cứ bâng khuâng mãi.
Nhà thơ Gia Dũng. Ảnh CANDThời chống Mỹ, cánh lính chúng tôi ai mà không thuộc, không thích bài hát “Bài ca Trường Sơn”, lời thơ của Gia Dũng, nhạc của Trần Chung. Bài hát được phát đi phát lại nhiều lần trong các chương trình ca nhạc của Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam, lại còn được đưa vào các buổi ca nhạc đặc biệt được phát vào các buổi chủ nhật với tên gọi “Buổi phát thanh ca nhạc theo yêu cầu của thính giả”. Các đoàn văn công lớn nhỏ, chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư đều chọn bài hát này làm tiết mục biểu diễn của mình. Quân đã thích, dân càng thích nữa. Đâu đâu cũng nghe hát. Nào hội nghị, nào liên hoan, nào hội diễn, nào các đám cưới hỏi, trên đường hành quân, hoặc quanh những bếp lửa trại. Gia Dũng – Trần Chung, cặp bài trùng mỗi ngày càng thêm nổi tiếng.
Trường Sơn! Đường ta qua chưa một dấu chân người
Chú nai vàng nghiêng đôi tai ngơ ngác
Dừng ở lưng đèo mà nghe suối hát
Ngắt đoá hoa rừng cài lên mũ ta đi
Đẹp quá. Lãng mạn qúa. Đường ra trận cứ nhẹ tênh. Đằng sau những đèo những suối kia là tâm hồn người lính lộng gió bốn phương, sức sống tràn trề, thật tiêu biểu cho cái tâm trạng chung của cả một thế hệ “Vì miền nam xốc tới”. Sau khúc mở đầu thơ mộng ấy, nhà thơ xoay ống kính vào tâm hồn người lính
Trường Sơn! Đèo vút cao vượt trên mây gió
Đạp nát đá tai mèo bằng sức pháo ngàn cân
Đi ta đi những trai làng Phù Đổng
Gì vui hơn đường ra trận mùa xuân
“Gì vui hơn đường ra trận mùa xuân”, nếu không một lần mặc áo lính, người ta không thể hiểu hết câu thơ nói được tâm trạng của cả một thế hệ này. Đi vào chỗ gian khổ tột bậc, chỗ sống chết từng giây mà gọi là vui ư? mà lại không có niềm vui nào hơn nữa chứ. Đó là sự thật. Lê Nin chả từng nói “Cách mạng là ngày hội của quần chúng” đó ư? Với Tố Hữu thì còn máu thịt hơn nữa. Trong “Nước non ngàn dặm” anh đã chả gọi “Đường ra phía trước, đường về tuổi xuân” đó ư? Rồi anh lại còn nói nữa.
Trường Sơn đông nắng, tây mưa
Ai chưa đến đó như chưa rõ mình
Chưa đến Trường Sơn thì chưa rõ mình, vậy thì chưa đến Trường Sơn làm sao có thể hiểu người Trường Sơn được? Sinh thời, Phạm Tiến Duật đã cự lại một nhà phê bình chê câu thơ của anh “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” là không thực. Thế mới biết ở đời tri âm tri kỷ là khó lắm thay. Trở lại với Gia Dũng, “Gì vui hơn đường ra trận mùa xuân” là đúng lắm, là cái tâm trạng chung của một thời. Chả thế mà mấy chục năm sau chiến tranh, bài hát của anh và Trần Chung còn được hậu sinh chọn làm Bài hát đi cùng năm tháng là hợp lẽ lắm.
Vốn “Bài ca Trường Sơn” có 29 câu, càng tới gần đoạn kết, thơ càng đi sâu vào thế giới nội tâm của người ra trận. Nhưng nếu phổ cả toàn bài thì dài quá, sợ chủ đề dễ bị loãng ra, nên Trần Chung chỉ chọn những câu tiêu biểu nhất, ghép lại thành một bài ca hoàn chỉnh. Ở đây, nhà thơ – nhạc sĩ thật là ăn ý, thật là tâm giao, khác nào Bá Nha – Tử Kỳ thuở trước.
Nhà thơ Hữu Thỉnh với tập sách “Ám ảnh chữ”Với một sự vang dội như thế, sau “Bài ca Trường Sơn” được phổ biến rộng rãi ít lâu, Gia Dũng từ đội quân làm báo của sư đoàn 312 cùng với Nguyễn Đức Mậu, Hà Đình Cẩn đã được Tổng cục chính trị trực tiếp điều về làm biên tập viên của Tạp chí văn nghệ quân đội, với dụng ý tạo điều kiện để anh mở rộng không gian hoạt động, nâng cao nghề nghiệp. Đây thực là sự quan tâm hiếm có. Hồi ấy, Tạp chí Văn nghệ Quân đội đối với cánh viết trẻ chúng tôi được coi là một thánh đường văn học cao vời vợi.
Năm 1982, sau khi tốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du khoá I, tôi được điều về công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội cùng với Chu Lai, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Khắc Trường, Trung Trung Đỉnh, Khuất Quang Thuỵ. Lúc này, tiếc quá Gia Dũng đã chuyển ngành về Ty Thông tin – văn hoá Hà Tuyên để có điều kiện sum họp và giúp đỡ gia đình.
Năm 1983, tại Đại hội Nhà văn lần thứ III, tôi được bầu vào Ban Chấp hành, rồi lại được bầu vào Ban Thư ký (tức Ban Thường vụ) phụ trách công tác nhà văn trẻ. Lúc đó, cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc vẫn đang diễn ra ác liệt, đặc biệt là vùng Vị Xuyên, Hà Giang. Hội Nhà văn và Tạp chí Văn nghệ Quân đội đã cử nhiều đoàn đi lên đó, thâm nhập thực tế để sáng tác. Ngắn thì hai ba tuần, dài thì một hai tháng, đi rồi về. Còn lực lượng tại chỗ thì quá mỏng, trừ Gia Dũng, Phù Ninh, Đinh Công Diệp, Trịnh Thanh Phong, Đoàn Thị Ký, Mai Liễu, nhưng tất cả đều tập trung ở Hà Tuyên thôi, các tỉnh khác thì còn thưa thớt lắm. Chiến tranh chưa biết bao giờ mới kết thúc. Phải đào tạo được một đội ngũ nhà văn trẻ là người đang sống tại địa phương, hiểu rõ hơn ai hết thực tế cuộc sống tại đây. Hội Nhà văn phải giúp đỡ các địa phương làm việc này. Tôi đem suy nghĩ đó báo cáo với anh Nguyễn Đình Thi, Tổng Thư ký và anh Chính Hữu, Phó Tổng Thư ký thường trực. Đề nghị của tôi đã được đưa ra bàn bạc tập thể tại cuộc giao ban của Ban Thư ký. Quyết định cụ thể là giao cho tôi bàn bạc với các Hội văn nghệ địa phương sáu tỉnh biên giới phía Bắc mở lớp học bồi dưỡng cho các cây bút trẻ, tạo nguồn sáng tạo tại chỗ. Thế là tôi bắt tay ngay vào công việc. Trước tiên phải lập kế hoạch tổng thể. Trong kế hoạch đó, tôi chọn Hà Tuyên làm địa điểm tổ chức lớp học với ba lý do. Một, đó là địa điểm trung tâm, hai là địa phương có lực lượng viết trẻ đông đảo, ba là có nhà thơ Gia Dũng, hiện đang làm Phó Chủ tịch Thường trực, kiêm Tổng Biên tập báo Văn nghệ Hà Tuyên. Bản kế hoạch được nhà thơ Chính Hữu trực tiếp phê duyệt.
Thế là tôi lên Hà Tuyên.
Và tất nhiên người tôi tìm gặp đầu tiên là nhà thơ Gia Dũng. Vốn là người rất có tín nhiệm với lãnh đạo của Tỉnh, nên kế hoạch mở lớp được Tỉnh uỷ, Uỷ ban Tỉnh hết lòng ủng hộ. Trước khi tôi trở lại Hà Nội, anh Gia Dũng mời tôi về thăm gia đình. Nhà anh ở gần chợ tỉnh. Vợ anh, chị Bình là người rất tháo vát và mến khách của chồng. Mọi lo toan ở nhà đều do chị cáng đáng cả, nên anh Dũng có điều kiện dành mọi thời gian cho công việc của cơ quan.
Ngày khai mạc lớp học thật đông vui, học viên từ Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, Bắc Thái, Cao Lạng kéo về. Ngoài ra các phóng viên báo chí, các thầy cô giáo dạy văn, các cán bộ tuyên huấn đều đến dự. Họ được coi là các học viên dự thính của lớp. Đoàn của Hội Nhà văn do nhà thơ Chính Hữu làm trưởng đoàn. Các giảng viên gồm có các nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận phê bình: Xuân Diệu, Đào Vũ, Nguyễn Thành Long, Lê Lựu, Nguyễn Đăng Mạnh, Vương Trí Nhàn…
Lớp học tiến hành trong 2 tháng, chia làm bốn giai đoạn
– Lên lớp
– Đi thực tế
– Thực hành sáng tác
– Trả bài, rút kinh nghiệm.
Suốt hai tháng dòng, anh Gia Dũng phải lo tất cả công tác tổ chức của lớp. Nào ăn, ở, đi về các địa phương. Hồi ấy cơ chế bao cấp còn nặng nề, hơn nữa Hà Tuyên là tỉnh miền núi có nhiều khó khăn, nhất là vùng biên giới còn đang diễn biến phức tạp. Anh Gia Dũng phải lo công tác nội trợ rất vất vả. Tuy vậy, anh không bỏ buổi lên lớp nào của học viên. Ngồi cạnh anh, tôi bảo:
– Anh đừng quên thơ đấy nhé.
– Quên thế nào được.
Anh trả lời tôi với nụ cười hiền hậu, cởi mở. Tính anh thế, những ngày được làm việc cùng anh ở Hà Tuyên và mãi sau này, tôi chưa thấy anh khó chịu với ai bao giờ. Lúc nào cũng tươi tỉnh, thân tình, gần gũi.
Sau một thời gian không lâu, các học viên ngày ấy đã có bước trưởng thành nhanh chóng. Các anh Phù Ninh, Đinh Công Diệp, Trịnh Thanh Phong, Đoàn Thị Ký, Cao Duy Thái, Mai Liễu của Hà Tuyên lần lượt trở thành hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Các anh Nguyễn Thế Sinh ở Yên Bái, Hoàng Quảng Uyên, Cao Duy Sơn ở Cao Bằng đều trở thành các nhà tiểu thuyết nổi tiếng viết về vùng núi.
Còn anh Gia Dũng thì vừa công tác vừa tiếp tục sáng tác. Anh là người rất cởi mở, dễ tính trong đời thường, nhưng rất kỹ tính đến mức cầu toàn trong văn chương. Trong bộ tổng tập các nhà văn Quân đội gồm 5 tập in khổ lớn, mỗi tập gần 1000 trang, xuất bản nhân kỷ niệm 80 năm thành lập Quân đội (1944 – 2024), ở phần thơ, anh được chọn 3 bài, mà bài nào cũng hay. Ngoài “Bài ca Trường Sơn” tôi đã quá quen, anh có hai bài làm tôi rất lạ. Đó là bài “Đò đêm” và bài “Chừng nao em mới về Làng Đót?”. Tôi lạ vì Gia Dũng trở lại thể thơ lục bát và thể thơ thất ngôn rất nhuyễn, tay nghề vào bậc cao thủ, lời đẹp, ý sâu, khép mở rất tài tình, làm tôi rất bất ngờ, đọc xong cứ bâng khuâng mãi. Toàn văn bài “Đò đêm” như sau:
Chiều rồi, nắng tắt. Đò ơi
Ngược Xuân Văn đấy? hay xuôi Đoan Hùng?
Về qua Dược, Dĩa… có dừng
Thì xin cho ghé xuôi cùng, đò ơi
Vài tàu lá cọ làm mui
Vài người khách lạ ngược xuôi đợi đò
Tôi đi không đợi không chờ
Nên người đưa tiễn trên bờ không ai
Đò đêm là bạn đường dài
Sông đêm là nỗi u hoài trong tôi
Lập loè điếu thuốc trên môi
Mặc con đò giữa dòng trôi hững hờ
Ở bài thơ trên, tác giả mượn tình để tả cảnh, mượn cảnh để gợi tình. Mọi chi tiết chỉ được huy động tới mức ít nhất để biểu lộ cảm xúc đến mức nhiều nhất. Cái tôi ở đây thấp thoáng như một lữ khách. Con đò thì có bến, người thì không có bến nào. Chuyến đò đêm như trôi trong mộng, và chuyến đi trên sông nước như là cuộc dạo chơi trên cõi trần. Bài thơ có ba khổ, khổ nào cũng hay, không thừa không thiếu vào đâu được. Đặc biệt khi đọc đến hai câu
Tôi đi không đợi không chờ
Nên người đưa tiễn trên bờ không ai
Tôi cảm thấy nhói đau tận đáy lòng. Người lữ khách như muốn rũ hết mọi bận bịu, mọi tơ duyên, bước xuống đò như bước chân vào cõi vô tận. Đọc tới đây tôi sực nhớ hai câu thơ của anh Xuân Sách, cũng nói về cảnh đò đêm
Nhìn theo ngọn khói vu vơ
Nhớ thương thì có đợi chờ thì không
Thi sĩ là thế đấy. Nói không mà lại có. Nói có mà lại không. Hai câu thơ của hai tác giả đều đẹp và đượm buồn. Một nỗi buồn có đầy khoảng trống đủ chỗ cho trời đất tìm về. Mới hay thơ có khi không nói một cái gì rõ rệt mà lại có sức gợi nên cả một thế giới.
Trở lại bài thơ “Đò đêm” của Gia Dũng. Anh khép lại bài thơ bằng bốn câu sau
Đò đêm là bạn đường dài
Sông đêm là nỗi u hoài trong tôi
Lập loè điếu thuốc trên môi
Mặc con đò giữa dòng trôi hững hờ
Mở đầu có vẻ nài nỉ “thì xin cho ghé xuôi cùng” rất là thiết tha, kết thúc thì “mặc con đò giữa dòng trôi hững hờ”. Xem vậy có gì mâu thuẫn quá chăng? Xin thưa, xét về logic hình thức thì có đấy, nhưng cứ lặn sâu vào tâm trạng của thi nhân thì lại thấy thống nhất, bởi tác giả đã nói trước với ta “tôi đi không hẹn không chờ” mà. Thế nên, được bước chân xuống đò, được thưởng thức cảnh khuya khoắt trên sông nước chính là cái đích đến của tác giả rồi. Thế thì cái nơi mà con đò vừa đi qua cũng là bến đỗ của tác giả rồi đấy. Có thế mới có thể coi con đò vừa là phương tiện vừa là đích đến để được nhận:
Đò đêm là bạn đường dài
Sông đêm là nỗi u hoài trong tôi
Nếu “Đò đêm” ta bắt gặp một Gia Dũng trong suốt trong sự thoát tục, thì đến bài “Chừng nao em mới về Làng Đót?” ta lại gặp anh trong sự gắn bó vô cùng sâu nặng với quê hương. Trong bài thơ này, tác giả mượn lời người con trai ở lại làng quê để nhắn gửi với người em gái đã tha hương từ lâu lắm. Mở bài là bốn câu vừa hỏi vừa trả lời
Chừng nao em mới về làng Đót?
Dòng Sa Lung nay đã khác xưa rồi
Thi thoảng có người qua bến cũ
Nhưng mà ít lắm, thoáng thì thôi
Đó là đại cảnh, còn đây là một thực tại chen giữa những đau thương, mất mát là nỗi niềm u uẩn của người đợi chờ:
Chiều không đổ bóng trên lưng mẹ
Xóm xưa buồn mẹ có còn đâu
Ngõ nhỏ ngày xưa tôi ngóng mãi
Hắt hiu chỉ gặp hắt hiu sầu
Tội nghiệp. Mất mát và buồn đau đến thế là cùng. Mẹ đi là mang đi tất cả. Còn lại là bóng con chơ vơ trong cảnh “Hắt hiu chỉ gặp hắt hiu sầu”. Hai chữ hắt hiu được lặp lại một cách tài tình, vừa vẽ lên không gian mênh mông vừa gợi nhớ thời gian vô tận. Cái nhạc điệu, cái âm hưởng của câu thơ kéo ta về cõi bất tận của quá khứ và làm cho quá khứ hiện về trong thực tại. Thế là câu chuyện kẻ ở người đi đã trở thành câu chuyện của muôn thuở. Với sự se thắt của cõi lòng, tác giả còn rủ ta đi xa nữa.
Chiều qua chợt thấy trời se lạnh
Hình như chim nhạn gọi thu sang
Chắc em không nhớ mùa thu nhỉ
Thu chỉ đồng quê, chỉ xóm làng
Đoạn thơ thoáng một chút trách móc. Bởi vì sự chờ đợi qúa lâu. Mùa thu thì đã trở về, mà ngừoi đi thì mãi chẳng thấy đâu. Nhưng “Thu chỉ đồng quê, chỉ xóm làng”. Một câu thơ đa nghĩa. Có thể hiểu mùa thu chỉ dành cho đồng quê, cho xóm làng, cũng thể hiểu mùa thu chỉ thực là mùa thu khi còn quê, còn làng. Ngay cả hai chữ đồng quê, xóm làng ở đây cũng còn có nghĩa là Mẹ. Mùa thu chỉ ý nghĩa khi còn Mẹ. Thế mới hay cái đa thanh của hồn chữ biết nhường nào.
Ở đoạn kết, tác giả nhắc lại câu hỏi theo kiểu thủ vĩ ngâm. Câu trên là nhắc lại lời. Ba câu sau là nhắc lại ý. Khép lại là thế nhưng mở ra là một thế giới khác. Mẹ đi rồi thì đường ngắn hoá dài, làng gần mà thành ra xa vô tận. Ưu đãi tai nghe tốt nhất
Chừng nao em mới về Làng Đót
Hỏi xong tôi chợt thấy thẹn lời
Làng Đót xưa em về có Mẹ
Bây giờ Làng Đót mấy xa xôi
Tuy nhắc lại câu hỏi, nhưng ở đoạn mở đầu thì có dấu hỏi (?) Ở cuối câu, còn ở đoạn kết thì không còn dấu hỏi (?) ấy nữa. Với một tay nghề chi ly như Gia Dũng, điều đó có dụng ý gì? Phải chăng câu hỏi đã được trả lời? Phải chắng nỗi niềm “Hắt hiu chỉ gặp hắt hiu sầu” đã được giãi bày cùng trời đất? Vậy là đã thoả lòng. Bởi thế mới cảm thấy “Hỏi xong tôi chợt thấy thẹn lời”. Chính tôi viết đến đây cũng thấy “Thẹn lời” vì những lời bình thô thiển bên cạnh những dòng thơ trĩu nặng tình đời, với hai bài thơ được dẫn trong bài viết này, tôi muốn nói lên sự sung sướng của nỗi bất ngờ và bất ngờ một cách sung sướng khi khám phá ra một Gia Dũng rất lạ rất khác dù tôi đã tưởng rất quen rất thuộc anh từ lâu. Và bây giờ là lúc tôi phải nhường lời cho bạn đọc bằng cách chép lại bài thơ để chúng ta cùng tri âm với tác giả:
CHỪNG NAO EM ỚI VỀ LÀNG ĐÓT
Chừng nao em mới về làng Đót?
Dòng Sa Lung nay đã khác xưa rồi
Thi thoảng có người qua bến cũ
Nhưng mà ít lắm, thoáng thì thôi
Chiều không đổ bóng trên lưng mẹ
Xóm xưa buồn mẹ có còn đâu
Ngõ nhỏ ngày xưa tôi ngóng mãi
Hắt hiu chỉ gặp hắt hiu sầu
Chiều qua chợt thấy trời se lạnh
Hình như chim nhạn gọi thu sang
Chắc em không nhớ mùa thu nhỉ
Thu chỉ đồng quê, chỉ xóm làng
Chừng nao em mới về Làng Đót
Hỏi xong tôi chợt thấy thẹn lời
Làng Đót xưa em về có Mẹ
Bây giờ Làng Đót mấy xa xôi.
HỮU THỈNH
(Trích từ tập “Ám ảnh chữ” của Hữu Thỉnh)
Trường Sơn! Đường ta qua chưa một dấu chân người
Chú nai vàng nghiêng đôi tai ngơ ngác
Dừng ở lưng đèo mà nghe suối hát
Ngắt đoá hoa rừng cài lên mũ ta đi
Đẹp quá. Lãng mạn qúa. Đường ra trận cứ nhẹ tênh. Đằng sau những đèo những suối kia là tâm hồn người lính lộng gió bốn phương, sức sống tràn trề, thật tiêu biểu cho cái tâm trạng chung của cả một thế hệ “Vì miền nam xốc tới”. Sau khúc mở đầu thơ mộng ấy, nhà thơ xoay ống kính vào tâm hồn người lính
Trường Sơn! Đèo vút cao vượt trên mây gió
Đạp nát đá tai mèo bằng sức pháo ngàn cân
Đi ta đi những trai làng Phù Đổng
Gì vui hơn đường ra trận mùa xuân
“Gì vui hơn đường ra trận mùa xuân”, nếu không một lần mặc áo lính, người ta không thể hiểu hết câu thơ nói được tâm trạng của cả một thế hệ này. Đi vào chỗ gian khổ tột bậc, chỗ sống chết từng giây mà gọi là vui ư? mà lại không có niềm vui nào hơn nữa chứ. Đó là sự thật. Lê Nin chả từng nói “Cách mạng là ngày hội của quần chúng” đó ư? Với Tố Hữu thì còn máu thịt hơn nữa. Trong “Nước non ngàn dặm” anh đã chả gọi “Đường ra phía trước, đường về tuổi xuân” đó ư? Rồi anh lại còn nói nữa.
Trường Sơn đông nắng, tây mưa
Ai chưa đến đó như chưa rõ mình
Chưa đến Trường Sơn thì chưa rõ mình, vậy thì chưa đến Trường Sơn làm sao có thể hiểu người Trường Sơn được? Sinh thời, Phạm Tiến Duật đã cự lại một nhà phê bình chê câu thơ của anh “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” là không thực. Thế mới biết ở đời tri âm tri kỷ là khó lắm thay. Trở lại với Gia Dũng, “Gì vui hơn đường ra trận mùa xuân” là đúng lắm, là cái tâm trạng chung của một thời. Chả thế mà mấy chục năm sau chiến tranh, bài hát của anh và Trần Chung còn được hậu sinh chọn làm Bài hát đi cùng năm tháng là hợp lẽ lắm.
Vốn “Bài ca Trường Sơn” có 29 câu, càng tới gần đoạn kết, thơ càng đi sâu vào thế giới nội tâm của người ra trận. Nhưng nếu phổ cả toàn bài thì dài quá, sợ chủ đề dễ bị loãng ra, nên Trần Chung chỉ chọn những câu tiêu biểu nhất, ghép lại thành một bài ca hoàn chỉnh. Ở đây, nhà thơ – nhạc sĩ thật là ăn ý, thật là tâm giao, khác nào Bá Nha – Tử Kỳ thuở trước.
Nhà thơ Hữu Thỉnh với tập sách “Ám ảnh chữ”Với một sự vang dội như thế, sau “Bài ca Trường Sơn” được phổ biến rộng rãi ít lâu, Gia Dũng từ đội quân làm báo của sư đoàn 312 cùng với Nguyễn Đức Mậu, Hà Đình Cẩn đã được Tổng cục chính trị trực tiếp điều về làm biên tập viên của Tạp chí văn nghệ quân đội, với dụng ý tạo điều kiện để anh mở rộng không gian hoạt động, nâng cao nghề nghiệp. Đây thực là sự quan tâm hiếm có. Hồi ấy, Tạp chí Văn nghệ Quân đội đối với cánh viết trẻ chúng tôi được coi là một thánh đường văn học cao vời vợi.
Năm 1982, sau khi tốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du khoá I, tôi được điều về công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội cùng với Chu Lai, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Khắc Trường, Trung Trung Đỉnh, Khuất Quang Thuỵ. Lúc này, tiếc quá Gia Dũng đã chuyển ngành về Ty Thông tin – văn hoá Hà Tuyên để có điều kiện sum họp và giúp đỡ gia đình.
Năm 1983, tại Đại hội Nhà văn lần thứ III, tôi được bầu vào Ban Chấp hành, rồi lại được bầu vào Ban Thư ký (tức Ban Thường vụ) phụ trách công tác nhà văn trẻ. Lúc đó, cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc vẫn đang diễn ra ác liệt, đặc biệt là vùng Vị Xuyên, Hà Giang. Hội Nhà văn và Tạp chí Văn nghệ Quân đội đã cử nhiều đoàn đi lên đó, thâm nhập thực tế để sáng tác. Ngắn thì hai ba tuần, dài thì một hai tháng, đi rồi về. Còn lực lượng tại chỗ thì quá mỏng, trừ Gia Dũng, Phù Ninh, Đinh Công Diệp, Trịnh Thanh Phong, Đoàn Thị Ký, Mai Liễu, nhưng tất cả đều tập trung ở Hà Tuyên thôi, các tỉnh khác thì còn thưa thớt lắm. Chiến tranh chưa biết bao giờ mới kết thúc. Phải đào tạo được một đội ngũ nhà văn trẻ là người đang sống tại địa phương, hiểu rõ hơn ai hết thực tế cuộc sống tại đây. Hội Nhà văn phải giúp đỡ các địa phương làm việc này. Tôi đem suy nghĩ đó báo cáo với anh Nguyễn Đình Thi, Tổng Thư ký và anh Chính Hữu, Phó Tổng Thư ký thường trực. Đề nghị của tôi đã được đưa ra bàn bạc tập thể tại cuộc giao ban của Ban Thư ký. Quyết định cụ thể là giao cho tôi bàn bạc với các Hội văn nghệ địa phương sáu tỉnh biên giới phía Bắc mở lớp học bồi dưỡng cho các cây bút trẻ, tạo nguồn sáng tạo tại chỗ. Thế là tôi bắt tay ngay vào công việc. Trước tiên phải lập kế hoạch tổng thể. Trong kế hoạch đó, tôi chọn Hà Tuyên làm địa điểm tổ chức lớp học với ba lý do. Một, đó là địa điểm trung tâm, hai là địa phương có lực lượng viết trẻ đông đảo, ba là có nhà thơ Gia Dũng, hiện đang làm Phó Chủ tịch Thường trực, kiêm Tổng Biên tập báo Văn nghệ Hà Tuyên. Bản kế hoạch được nhà thơ Chính Hữu trực tiếp phê duyệt.
Thế là tôi lên Hà Tuyên.
Và tất nhiên người tôi tìm gặp đầu tiên là nhà thơ Gia Dũng. Vốn là người rất có tín nhiệm với lãnh đạo của Tỉnh, nên kế hoạch mở lớp được Tỉnh uỷ, Uỷ ban Tỉnh hết lòng ủng hộ. Trước khi tôi trở lại Hà Nội, anh Gia Dũng mời tôi về thăm gia đình. Nhà anh ở gần chợ tỉnh. Vợ anh, chị Bình là người rất tháo vát và mến khách của chồng. Mọi lo toan ở nhà đều do chị cáng đáng cả, nên anh Dũng có điều kiện dành mọi thời gian cho công việc của cơ quan.
Ngày khai mạc lớp học thật đông vui, học viên từ Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, Bắc Thái, Cao Lạng kéo về. Ngoài ra các phóng viên báo chí, các thầy cô giáo dạy văn, các cán bộ tuyên huấn đều đến dự. Họ được coi là các học viên dự thính của lớp. Đoàn của Hội Nhà văn do nhà thơ Chính Hữu làm trưởng đoàn. Các giảng viên gồm có các nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận phê bình: Xuân Diệu, Đào Vũ, Nguyễn Thành Long, Lê Lựu, Nguyễn Đăng Mạnh, Vương Trí Nhàn…
Lớp học tiến hành trong 2 tháng, chia làm bốn giai đoạn
– Lên lớp
– Đi thực tế
– Thực hành sáng tác
– Trả bài, rút kinh nghiệm.
Suốt hai tháng dòng, anh Gia Dũng phải lo tất cả công tác tổ chức của lớp. Nào ăn, ở, đi về các địa phương. Hồi ấy cơ chế bao cấp còn nặng nề, hơn nữa Hà Tuyên là tỉnh miền núi có nhiều khó khăn, nhất là vùng biên giới còn đang diễn biến phức tạp. Anh Gia Dũng phải lo công tác nội trợ rất vất vả. Tuy vậy, anh không bỏ buổi lên lớp nào của học viên. Ngồi cạnh anh, tôi bảo:
– Anh đừng quên thơ đấy nhé.
– Quên thế nào được.
Anh trả lời tôi với nụ cười hiền hậu, cởi mở. Tính anh thế, những ngày được làm việc cùng anh ở Hà Tuyên và mãi sau này, tôi chưa thấy anh khó chịu với ai bao giờ. Lúc nào cũng tươi tỉnh, thân tình, gần gũi.
Sau một thời gian không lâu, các học viên ngày ấy đã có bước trưởng thành nhanh chóng. Các anh Phù Ninh, Đinh Công Diệp, Trịnh Thanh Phong, Đoàn Thị Ký, Cao Duy Thái, Mai Liễu của Hà Tuyên lần lượt trở thành hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Các anh Nguyễn Thế Sinh ở Yên Bái, Hoàng Quảng Uyên, Cao Duy Sơn ở Cao Bằng đều trở thành các nhà tiểu thuyết nổi tiếng viết về vùng núi.
Còn anh Gia Dũng thì vừa công tác vừa tiếp tục sáng tác. Anh là người rất cởi mở, dễ tính trong đời thường, nhưng rất kỹ tính đến mức cầu toàn trong văn chương. Trong bộ tổng tập các nhà văn Quân đội gồm 5 tập in khổ lớn, mỗi tập gần 1000 trang, xuất bản nhân kỷ niệm 80 năm thành lập Quân đội (1944 – 2024), ở phần thơ, anh được chọn 3 bài, mà bài nào cũng hay. Ngoài “Bài ca Trường Sơn” tôi đã quá quen, anh có hai bài làm tôi rất lạ. Đó là bài “Đò đêm” và bài “Chừng nao em mới về Làng Đót?”. Tôi lạ vì Gia Dũng trở lại thể thơ lục bát và thể thơ thất ngôn rất nhuyễn, tay nghề vào bậc cao thủ, lời đẹp, ý sâu, khép mở rất tài tình, làm tôi rất bất ngờ, đọc xong cứ bâng khuâng mãi. Toàn văn bài “Đò đêm” như sau:
Chiều rồi, nắng tắt. Đò ơi
Ngược Xuân Văn đấy? hay xuôi Đoan Hùng?
Về qua Dược, Dĩa… có dừng
Thì xin cho ghé xuôi cùng, đò ơi
Vài tàu lá cọ làm mui
Vài người khách lạ ngược xuôi đợi đò
Tôi đi không đợi không chờ
Nên người đưa tiễn trên bờ không ai
Đò đêm là bạn đường dài
Sông đêm là nỗi u hoài trong tôi
Lập loè điếu thuốc trên môi
Mặc con đò giữa dòng trôi hững hờ
Ở bài thơ trên, tác giả mượn tình để tả cảnh, mượn cảnh để gợi tình. Mọi chi tiết chỉ được huy động tới mức ít nhất để biểu lộ cảm xúc đến mức nhiều nhất. Cái tôi ở đây thấp thoáng như một lữ khách. Con đò thì có bến, người thì không có bến nào. Chuyến đò đêm như trôi trong mộng, và chuyến đi trên sông nước như là cuộc dạo chơi trên cõi trần. Bài thơ có ba khổ, khổ nào cũng hay, không thừa không thiếu vào đâu được. Đặc biệt khi đọc đến hai câu
Tôi đi không đợi không chờ
Nên người đưa tiễn trên bờ không ai
Tôi cảm thấy nhói đau tận đáy lòng. Người lữ khách như muốn rũ hết mọi bận bịu, mọi tơ duyên, bước xuống đò như bước chân vào cõi vô tận. Đọc tới đây tôi sực nhớ hai câu thơ của anh Xuân Sách, cũng nói về cảnh đò đêm
Nhìn theo ngọn khói vu vơ
Nhớ thương thì có đợi chờ thì không
Thi sĩ là thế đấy. Nói không mà lại có. Nói có mà lại không. Hai câu thơ của hai tác giả đều đẹp và đượm buồn. Một nỗi buồn có đầy khoảng trống đủ chỗ cho trời đất tìm về. Mới hay thơ có khi không nói một cái gì rõ rệt mà lại có sức gợi nên cả một thế giới.
Trở lại bài thơ “Đò đêm” của Gia Dũng. Anh khép lại bài thơ bằng bốn câu sau
Đò đêm là bạn đường dài
Sông đêm là nỗi u hoài trong tôi
Lập loè điếu thuốc trên môi
Mặc con đò giữa dòng trôi hững hờ
Mở đầu có vẻ nài nỉ “thì xin cho ghé xuôi cùng” rất là thiết tha, kết thúc thì “mặc con đò giữa dòng trôi hững hờ”. Xem vậy có gì mâu thuẫn quá chăng? Xin thưa, xét về logic hình thức thì có đấy, nhưng cứ lặn sâu vào tâm trạng của thi nhân thì lại thấy thống nhất, bởi tác giả đã nói trước với ta “tôi đi không hẹn không chờ” mà. Thế nên, được bước chân xuống đò, được thưởng thức cảnh khuya khoắt trên sông nước chính là cái đích đến của tác giả rồi. Thế thì cái nơi mà con đò vừa đi qua cũng là bến đỗ của tác giả rồi đấy. Có thế mới có thể coi con đò vừa là phương tiện vừa là đích đến để được nhận:
Đò đêm là bạn đường dài
Sông đêm là nỗi u hoài trong tôi
Nếu “Đò đêm” ta bắt gặp một Gia Dũng trong suốt trong sự thoát tục, thì đến bài “Chừng nao em mới về Làng Đót?” ta lại gặp anh trong sự gắn bó vô cùng sâu nặng với quê hương. Trong bài thơ này, tác giả mượn lời người con trai ở lại làng quê để nhắn gửi với người em gái đã tha hương từ lâu lắm. Mở bài là bốn câu vừa hỏi vừa trả lời
Chừng nao em mới về làng Đót?
Dòng Sa Lung nay đã khác xưa rồi
Thi thoảng có người qua bến cũ
Nhưng mà ít lắm, thoáng thì thôi
Đó là đại cảnh, còn đây là một thực tại chen giữa những đau thương, mất mát là nỗi niềm u uẩn của người đợi chờ:
Chiều không đổ bóng trên lưng mẹ
Xóm xưa buồn mẹ có còn đâu
Ngõ nhỏ ngày xưa tôi ngóng mãi
Hắt hiu chỉ gặp hắt hiu sầu
Tội nghiệp. Mất mát và buồn đau đến thế là cùng. Mẹ đi là mang đi tất cả. Còn lại là bóng con chơ vơ trong cảnh “Hắt hiu chỉ gặp hắt hiu sầu”. Hai chữ hắt hiu được lặp lại một cách tài tình, vừa vẽ lên không gian mênh mông vừa gợi nhớ thời gian vô tận. Cái nhạc điệu, cái âm hưởng của câu thơ kéo ta về cõi bất tận của quá khứ và làm cho quá khứ hiện về trong thực tại. Thế là câu chuyện kẻ ở người đi đã trở thành câu chuyện của muôn thuở. Với sự se thắt của cõi lòng, tác giả còn rủ ta đi xa nữa.
Chiều qua chợt thấy trời se lạnh
Hình như chim nhạn gọi thu sang
Chắc em không nhớ mùa thu nhỉ
Thu chỉ đồng quê, chỉ xóm làng
Đoạn thơ thoáng một chút trách móc. Bởi vì sự chờ đợi qúa lâu. Mùa thu thì đã trở về, mà ngừoi đi thì mãi chẳng thấy đâu. Nhưng “Thu chỉ đồng quê, chỉ xóm làng”. Một câu thơ đa nghĩa. Có thể hiểu mùa thu chỉ dành cho đồng quê, cho xóm làng, cũng thể hiểu mùa thu chỉ thực là mùa thu khi còn quê, còn làng. Ngay cả hai chữ đồng quê, xóm làng ở đây cũng còn có nghĩa là Mẹ. Mùa thu chỉ ý nghĩa khi còn Mẹ. Thế mới hay cái đa thanh của hồn chữ biết nhường nào.
Ở đoạn kết, tác giả nhắc lại câu hỏi theo kiểu thủ vĩ ngâm. Câu trên là nhắc lại lời. Ba câu sau là nhắc lại ý. Khép lại là thế nhưng mở ra là một thế giới khác. Mẹ đi rồi thì đường ngắn hoá dài, làng gần mà thành ra xa vô tận. Ưu đãi tai nghe tốt nhất
Chừng nao em mới về Làng Đót
Hỏi xong tôi chợt thấy thẹn lời
Làng Đót xưa em về có Mẹ
Bây giờ Làng Đót mấy xa xôi
Tuy nhắc lại câu hỏi, nhưng ở đoạn mở đầu thì có dấu hỏi (?) Ở cuối câu, còn ở đoạn kết thì không còn dấu hỏi (?) ấy nữa. Với một tay nghề chi ly như Gia Dũng, điều đó có dụng ý gì? Phải chăng câu hỏi đã được trả lời? Phải chắng nỗi niềm “Hắt hiu chỉ gặp hắt hiu sầu” đã được giãi bày cùng trời đất? Vậy là đã thoả lòng. Bởi thế mới cảm thấy “Hỏi xong tôi chợt thấy thẹn lời”. Chính tôi viết đến đây cũng thấy “Thẹn lời” vì những lời bình thô thiển bên cạnh những dòng thơ trĩu nặng tình đời, với hai bài thơ được dẫn trong bài viết này, tôi muốn nói lên sự sung sướng của nỗi bất ngờ và bất ngờ một cách sung sướng khi khám phá ra một Gia Dũng rất lạ rất khác dù tôi đã tưởng rất quen rất thuộc anh từ lâu. Và bây giờ là lúc tôi phải nhường lời cho bạn đọc bằng cách chép lại bài thơ để chúng ta cùng tri âm với tác giả:
CHỪNG NAO EM ỚI VỀ LÀNG ĐÓT
Chừng nao em mới về làng Đót?
Dòng Sa Lung nay đã khác xưa rồi
Thi thoảng có người qua bến cũ
Nhưng mà ít lắm, thoáng thì thôi
Chiều không đổ bóng trên lưng mẹ
Xóm xưa buồn mẹ có còn đâu
Ngõ nhỏ ngày xưa tôi ngóng mãi
Hắt hiu chỉ gặp hắt hiu sầu
Chiều qua chợt thấy trời se lạnh
Hình như chim nhạn gọi thu sang
Chắc em không nhớ mùa thu nhỉ
Thu chỉ đồng quê, chỉ xóm làng
Chừng nao em mới về Làng Đót
Hỏi xong tôi chợt thấy thẹn lời
Làng Đót xưa em về có Mẹ
Bây giờ Làng Đót mấy xa xôi.
HỮU THỈNH
(Trích từ tập “Ám ảnh chữ” của Hữu Thỉnh)