
(Theo yêu cầu của TC Văn nghệ quân đội muốn tôi kể về thời làm báo trong chiến tranh. Vâng kể đôi dòng)Trong cuộc đời quân ngũ 28 năm của tôi thì 10 năm đầu là “nhà báo binh trạm” hay còn gọi là “nhà báo binh nhì”. Sau này vẫn hoạt động báo chí nhưng “đẳng cấp” hơn.
Tôi nhập ngũ tháng 5 năm 1965 khi đang là giáo viên cấp 2 trường Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội. Tôi được về tiểu đoàn 936 thuộc Cục Vận tải, Tổng cục Hậu cần đóng quân ngay tại Văn Điển, Thanh Trì, Hà Nội. Chỉ vài ngày sau tôi được biên chế về bộ phận chính trị của tiểu đoàn. Chắc lãnh đạo thấy tôi là giáo viên lại có hoa tay nên cho tôi làm nhân viên tuyên huấn chuyên kẻ khẩu hiệu và trang trí doanh trại. Người phụ trách tôi là trợ lý tuyên huấn thiếu úy Ngọc Tự. Anh Tự vốn là cán bộ đoàn huyện Phú Xuyên nên nhập ngũ được mang lon thiếu úy. Tôi là giáo viên cấp 2 được nhận quân hàm mang Quốc kì xinh xắn. Tôi bắt đầu được giao nhiệm vụ đi xuống các đại đội lấy tư liệu viết tin, viết về lái xe dũng cảm. Vào đơn vị vận tải mà không được đào tạo lái xe vì tôi rất gầy, khi khám sức khỏe nhập ngũ có 42 kg. Vào năm 1965 có đợt tổng động viên nên thấp bé nhẹ cân vẫn nhập ngũ vô tư. Cuối năm 1965 máy bay Mỹ đánh phá Văn Điển dữ dội, tiểu đoàn bộ 936 phải sơ tán về Trường Âm nhạc Ô Chợ Dừa. Lính chúng tôi rất sướng được ở nội thành và đôi khi được ngắm dáng kiều thơm, nghe các ca sĩ đàn hát ngay tòa nhà bên cạnh.
Ban chỉ huy tiểu đoàn chủ trương ra tờ tin nội bộ. Tôi được giao soạn bài, biên tập. Bản tin đánh máy trên giấy pơluya chừng vài chục trang, có đủ tin tức, ca dao, truyện cười. Một tay tôi làm tuốt tuồn tuột, duyệt qua trợ lý tuyên huấn là xong. Bản tin phát xuống các tiểu đội và dán trên bảng tin tại tiểu đoàn bộ. Bộ đội chả có mấy sách báo nên bản tin tiểu đoàn được đón nhận. Một lần Phạm Tiến Duật từ Phòng Chính trị Cục Vận tải đóng quân trong thành Hoàng Diệu xuống thăm tiểu đoàn 936. Duật đọc mấy bài ca dao của tôi in trên bản tin, khen đứt lưỡi. Duật bảo đồng hương Phú Thọ viết ca dao hay lắm, chịu khó làm nhé Trần Nhương. Hồi ấy Duật đã nổi quả còn tôi thì tập tọng viết ca dao. Tôi nhớ bài ca dao ấy có tên Nhắn xe qua cầu có những câu: Cầu này em bắc qua sông/ Để anh vận chuyển vào trong đưa hàng/ Hàng này còn quý hơn vàng/ Chớ để rơi hàng em chẳng vui đâu/ Tiễn anh, em nhắn một câu/ Xin đừng sơ ý qua cầu gió bay… Bài ca dao đó sau này nhạc sĩ Doãn Nho phổ nhạc với giai điệu nhí nhảnh tinh nghịch rất hay…
Tiểu đoàn 936 của tôi đến năm 1966 thì vào Thanh Hóa nhập vào đội hình Binh trạm 10. Tiểu đoàn của tôi đóng quân Triệu Sơn. Năm 1967 tôi được điều lên Ban Chính trị binh trạm làm nhân viên tuyên huấn, binh trạm bộ đóng quân nhờ nhà dân thuộc xã Đông Hương ngay gần cầu Hàm Rồng, sau lên huyện Đông Sơn.
Trong chiến tranh vận chuyển khó khăn nên báo chí về đến đơn vị có khi cả tháng. Ban Chính trị Binh trạm quyết định ra bản tin nội bộ bằng hình thức in lito. In lito là in đá mà bây giờ không ai còn nhớ kiểu in cổ lỗ này. Thời ấy ngoài Hà Tây rất phát triển loại thông tin in lito . Tôi được cử về Thường Tín theo học một ông họa sĩ làm ở Sở Văn hóa Hà Tây (Tôi không còn nhớ tên) chuyên gia in lito. Ông dạy tôi viết chữ ngược từ phải qua trái, viết phải đẹp gần như chữ in, cách dòng cân lề trái phải như cột báo. Khi viết chữ ngược thành thạo trên giấy mới bắt đầu vào giai đoạn khó nhất là viết trên đá. Một miếng đá vôi trắng cỡ bằng tờ giấy A3, một cây bút ngòi lá tre, chấm vào một loại mực sền sệt pha sáp ong và mực tím. Trời ơi khó dã man vì cái loại mực đâu có trơn như mực Hồng Hà. Một cái khó nữa là viết phải thẳng hàng, thẳng cột cân lề như một trang báo in tipo. Viết lên đá bằng chữ ngược chờ cho khô mực rồi nhỏ nước chanh lên bề mặt đá. Nước chanh ăn mòn nhẹ phần đá không có chữ, các dòng chữ nổi lên có thể gợn bàn tay. Lấy lulo lăn mực đen lên bề mặt chữ, đặt tờ giấy khổ A3 lên rồi dùng lulo sạch lăn mạnh. Chữ in vào mặt giấy. Lần đầu hồi hộp như gặp gái, nhẹ nhàng bóc tờ giấy ra lật xem. Ôi chữ như vừng kín trang giấy nhảy múa trước mắt tôi. Tất nhiên in thủ công thì chưa sắc nét, có chỗ nhòe mờ. Ông họa sĩ khen lần đầu thế là ngon rồi.
Độ nửa tháng khá thạo công việc, tôi gánh gồng mấy phiến đá, bút mực, lulo to nhỏ theo xe vào Thanh Hóa. Về đến Binh trạm bộ đóng quân ở xã Đông Hoàng, huyện Đông Sơn là tiến hành thực hiện ngay. Bộ phận tuyên huấn và tôi lo bài vở cho số đầu tiên. Tôi viết chữ ngược lên 2 phiến đá đến mấy ngày mới xong. Cũng trình bày hoa văn, minh họa như thật. Bản tin nội bộ Binh trạm 10 ra đời khổ A3 hai mặt đầy chữ có tin tức, có gương lái xe dũng cảm vượt trọng điểm, có thơ ca và tranh vui đều do tôi tự chế… Bé tí nhưng có võ. Tờ tin ra đều đặn nửa tháng một kì. Tôi càng ngày càng thành thạo viết chữ ngược và in lito. Cũng phải phục mình một tay vừa biên tập, trị sự lại kiêm cả thợ in cho một “tờ báo” nội bộ. Cũng hình thành đội ngũ cộng tác viên ở khắp các đơn vị trong binh trạm.
Có lần binh trạm được đón đoàn văn nghệ sĩ đi thực tế có các nhà văn Xuân Thiều, Nguyễn Kiên và diễn viên Đào Mộng Long. Các nhà văn đọc bản tin Binh trạm 10 khen hay. Nhà văn Xuân Thiều đọc bài thơ Cung đường của tôi góp ý sửa vài câu mà lên mấy chân kính.
Cũng dịp đó Phạm Tiến Duật được phân công làm thuyết minh cho đội chiếu bóng của Cục Vận tải. Duật gặp tôi ở Đông Hoàng, Thanh Hóa, kí tặng tôi bản đánh máy bài thơ Lửa đèn vừa viêt xong và một bài thơ viết tay tên Ngã tư viết về ngã tư Quán Giắt. Tôi còn nhớ bài thơ đó có mấy câu: Ngã tư là ngã tư nào/ Chưa ra đã nhớ chưa vào đã quên/ Biết đâu đấy có nhà em/ Mà nhìn cho rõ mà xem cho tường…
Cuộc chiến tranh ngày càng ác liệt, binh trạm của tôi chuyển sâu về phía nam để tạo chân hàng cho đoàn 559. Tôi được điều động về Phòng Chính trị của Cục Vận tải quân sự chuyên viết tin, viết gương chiến đấu để tuyên truyền thành tích của Cục in trên báo Quân đội, báo Nhân dân và Phát thanh quân đội. Tôi thực sự là một nhà báo lưu động trên nhiều tuyến vận tải. Tôi trở thành cộng tác viên tích cực của các báo và buổi phát thanh Quân đội. Hầu như tôi không mấy khi ở cơ quan cục mà chủ yếu theo các đoàn xe vào tuyến lửa. Khi ở binh trạm 16 trên đường 20, khi vào đường 7 binh trạm 13, khi đi sâu vào Làng Ho, phía tây Quảng Bình nơi Binh trạm 17 đóng quân. Tôi bám theo các đơn vị vận tải vượt Đèo Khỉ, trọng điểm Chà Lỳ đưa hàng sang phía Tây Trường Sơn để lấy tư liệu viết báo. Tôi nhớ có lần cùng anh em lái xe suýt chết ở La Trọng trên đường 12A vì một trận bom lúc 5 giờ chiều. Do anh em nấu cơm để khói bay nhiều quá nên phản lực Mỹ ập đến bất ngờ. Tôi vội chạy đến căn hầm chữ A nhưng đã kín người, tôi ngồi ngoài cùng chỉ lấy cái cặp che đầu. Vừa ngớt bom tôi chạy tìm một căn hầm cá nhân, chui xuống. Không biết linh tính mách bảo sao đó tôi vùng lên chạy về phía núi đá. Sau trận bom tôi quay ra thì cái hầm cá nhân tôi đã xuống bị một quả bom xuyên tan tành. Đêm đó tôi theo xe về Tân Ấp, Quảng Bình. Trên thùng xe chỉ có mình tôi và một tử sĩ được bó trong túi nilon đưa về hậu cứ ở Tân Ấp chôn cất. Đường sóc, xe nghiêng bên này nghiêng bên kia, người tử sĩ cứ lăn trên xe. Tôi phải liều nhảy qua nhảy lại để tránh va đập vào thi hài anh…
Vào tháng 7 năm 1971 chiến dịch Đường 9- Nam Lào đang diễn ra ác liệt, tôi lại được cử vào viết báo ở Binh trạm 17 đóng tại Làng Ho phía Tây Quảng Bình. Một hôm binh trạm trưởng bảo tôi cậu người của cục vào đây giúp binh trạm đi đón khách nhé. Tôi theo một xe Gát 63 đi đón đoàn nhà văn nhà báo là chị Nguyễn Thị Như Trang công tác tại Tạp chí Văn nghệ quân đội và anh Dân Hồng đang công tác ở Báo Quân đội nhân dân. Con đường 12A đầy bom đạn mà phải đi trên 40 km từ Làng Ho ra Ngã ba Thạch Bàn đón khách thì không biết may rủi thế nào. Cứ đi, nhiệm vụ giao là phải thực hiện. Và tôi cũng vui được gặp hai nhà văn nhà báo tôi yêu quý. Nửa đêm gặp được chị Như Trang và anh Dân Hồng tại ngã ba Thạch Bàn mừng quá. Tôi giới thiệu tên và được đi đón các anh chị. Vừa nói tên thì chị Như Trang, anh Dân Hồng đã nhận ra tôi. Có lẽ anh chị biết tên tôi vì năm 1968 tôi đã có thơ đầu tiên in trên Tạp chí VNQĐ và thường xuyên in ca dao trên đó và cộng tác với Báo Quân đội thường xuyên. Hồi ấy khổ tạp chí bé như cuốn sách khổ 13 x 19 in tipo giấy đen xì nhưng nhuận bút không hề nhỏ.
Những ngày sau đó tôi được phân công theo chị Như Trang, anh Dân Hồng xuống đại đội vận tải đưa hàng vượt qua Đèo Khỉ, trọng điểm Chà Lỳ sang phía tây Trường Sơn. Có một đêm khoảng 3 giờ sáng tôi đã về tới lán đại đội bố trí cho chúng tôi ngủ. Lán lợp lá, chỗ ngủ là sạp lát nứa dài chừng dăm mét. Một lúc chị Như Trang cũng về. Anh Dân Hồng chắc bị bom chặn dọc đường nên chưa thấy đâu. Chị Như Trang nằm một đầu sạp nứa, tôi nằm một đầu. Nói dăm câu chuyện rồi im lặng nhưng cả hai không sao chợp mắt được... Sau này nhớ lại đang tuổi 30 mà tôi thành nhà sư Thích Đứng Đắn…Sau chuyến đi đó chị Như Trang đã viết một tập truyện ngắn mang tên Câu chuyện ở rừng, anh Dân Hồng cũng có sách mới. Riêng tôi làm được bài thơ Đèo Khỉ và truyện kí Hai phát đại bác 130 li được in trên báo Văn nghệ năm 1972 và rất nhiều bài báo về tuyến đường này.
Năm 1972, giặc Mỹ đánh phá Hải Phòng, Hà Nội dữ dội. Các tuyến vận tải bị ngăn chặn suốt ngày đêm. Để kịp thời động viên các bộ chiến sĩ trong cục, lãnh đạo cục quyết định ra bản tin Vận tải in tipo hẳn hoi. Tôi lúc ấy là chuẩn úy chuyên nghiệp được giao nhiệm vụ phụ trách tờ tin có 5 chiến sĩ xếp chữ, in ấn và một chiến sĩ chuyên chụp ảnh. Chúng tôi đi mua máy in thủ công đẩy tay, xuống Nhà in Hậu cần mua vật tư, chữ chì còn làm cả phòng tối cho việc tráng rửa ảnh. Anh em cấp tập học xếp chữ, học in. Ảnh chụp thì nhờ nhà in Hậu cần làm bản kẽm. Ngôi nhà cấp 4 và một nhà bạt được dựng lên trong vườn toàn cây doi cổ thụ nhà bà Liễu ở Quảng Bá. “Tòa soạn dã chiến” “Nhà in dã chiến” hoạt động rất sôi động. Bản tin Vận tải có măng xét hẳn hoi, có in cả ảnh không kém gì các tờ báo quân binh chủng. Khắp các tuyến đường vận tải tờ tin của cục đã đến với lái xe, đến các binh trạm tiền tiêu. Thời chiến nên tờ tin in tipo của chúng tôi chả cần ai cấp phép, cứ hiện diện như một “tờ báo” chính danh. Bây giờ mà thế thì cầm chắc ăn phạt, bắt đóng cửa.
Dịp đó trường viết văn Quảng Bá của Hội Nhà văn Việt Nam vừa khai giảng khóa 6. Các nhà thơ Vương Trọng, Vũ Từ Trang, Phạm Hoa và nhiều nhà văn… thường hay tạt vào “tòa soạn” chơi. Tôi nhìn các anh nhà văn mà thèm được đi học. Là lính hậu cần nên chúng tôi khá nhiều lương khô nên thỉnh thoảng lại làm quà cho các nhà văn có tý nhâm nhi chống đói mà sáng tác. Cũng nhờ ở nhà bạt mà tôi viết được bài thơ Ở Nhà bạt in trên Tạp chí Văn nghệ quân đội.
Đến ngày toàn thắng năm 1975, bản tin Vận tải kết thúc nhiệm vụ lịch sử của mình.
Nghĩ lại cái thời ấy cũng thấy tự hào, chả gì tôi cũng làm chủ mấy “tờ báo” chứ xoàng đâu.
Năm 1977 tôi được điều về Báo Chiến sĩ Hậu cần do đại úy Đoàn Phục phụ trách. Đội ngũ phóng viên toàn những nhà báo có hạng như Kim Quốc Hoa, Nguyễn Nghĩa Tư, Ngọc Niên, Xuân Thông, Mai Phương…Tôi trở thành nhà báo chuyên nghiệp được cấp thẻ nhà báo chính danh.
Năm 1983 sau khi tốt nghiệp khóa 1 trường Nguyễn Du, tôi được về Phòng biên tập sách Văn nghệ Nhà xuất bản Quân đội nhân dân cùng nhà văn Dương Duy Ngữ. Thời đó nhà văn Hà Phạm Phú phụ trách phòng Văn nghệ báo Quân đội nhân dân. Ông nhờ tôi giữ trang vui cười của báo. Tôi viết khá nhiều chuyện vui, tuần nào cũng đăng. Có một chuyện Tắm từ vai phê phán việc né tránh phê bình kỉ luật quan to ( bây giờ gọi là vùng cấm). Sau khi báo in có vị cán bộ Cục Tuyên huấn nổi khùng, nhắc nhở tôi chín chắn hơn kẻo rơi quân hàm…
Trước khi làm văn chương, tôi làm báo cũng có bề dầy, ngay từ lúc binh nhì. Bây giờ vẫn viết báo nhưng thời làm báo “chân đất”, làm báo “binh trạm” để lại nhiều kỉ niệm tươi mới, hồn nhiên và đáng nhớ nhất. Một thời thanh xuân sôi động vẫn như đất hiếm trầm tích trong lòng mình….
5-2025